Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), Việt Nam đã cam kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế về việc đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050. Với trách nhiệm giảm phát thải để góp phần giảm nhẹ biến đổi khí hậu toàn cầu, hướng tới nền kinh tế xanh, nông nghiệp Việt Nam đang từng bước chuyển đổi mô hình sản xuất đáp ứng xu thế tăng trưởng xanh, tiêu dùng xanh.

Xu hướng phát triển của dây chuyền lạnh

Môi trường nhiệt độ thấp được tạo ra để bảo quản có thể tạo cơ hội cho sự tồn tại của virus.

Việc phát triển số lượng và chất lượng nông sản tươi không thể tách rời với phát triển dây chuyền lạnh tiên tiến, chính xác và chất lượng. Tuy nhiên, xét về sự phát triển dây chuyền lạnh hiện nay thì số lượng khá lớn nhưng lại thiếu hệ thống quản lý; và có sự chênh lệch nhất định về trình độ kỹ thuật so với nước ngoài.

Từ quan điểm của logistics chuỗi lạnh ở các nước châu Âu và Mỹ. Ngoài các chính sách tốt để cung cấp cổ tức; điều quan trọng nhất là áp dụng công nghệ vào hệ thống xây dựng của logistics chuỗi lạnh. Chẳng hạn như thông tin hóa, thông minh hóa, kho lạnh tự động, và phân loại tự động; phân loại công nghệ GPS; công nghệ làm lạnh sơ bộ chân không hoặc làm lạnh sơ bộ bằng nhiệt độ nước đá, v.v., Nhờ đó nâng cao hiệu quả tổng thể của dây chuyền lạnh; đảm bảo độ tươi và an toàn của sản phẩm.

Họ sẽ ký hợp đồng sản phẩm dễ hư hỏng trực tiếp cho các công ty lưu trữ tốt nhất trong ngành công nghiệp chuỗi lạnh. Do đó, chuyên môn hóa được kỹ thuật vận chuyển; đảm bảo độ tươi và an toàn thực phẩm cho các sản phẩm nông nghiệp; đồng thời giúp giảm chi phí.

Làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa công nghệ và trình độ dây chuyền lạnh nông sản trong nước và nước ngoài. Làm thế nào để nâng cấp sẽ là vấn đề cần phải giải quyết trong tương lai. Đồng thời nó cũng trở thành một mắt xích chính trong phát triển sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy, việc phát triển hệ thống dây chuyền lạnh là xu hướng phát triển trong tương lai của nó.

Xu hướng phát triển thương hiệu

Năm 2010, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc đã vượt quá 5.000 đô la Mỹ, và năm 2020 đã vượt 10.000 đô la Mỹ.

Các quy luật của nền kinh tế toàn cầu chỉ ra rằng khi GDP bình quân đạt 5.000 đô la Mỹ, tiêu dùng của người dân bắt đầu chuyển từ tự cung tự cấp sang hưởng thụ. Điều này tạo cơ hội tốt nhất cho quá trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa và xây dựng thương hiệu nông nghiệp trong thời đại mới.

Không còn nghi ngờ gì nữa, xây dựng thương hiệu là xu hướng quan trọng nhất để nâng cao chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp.

Quả sói Ninh Hạ, gạo Cát Lâm, dầu trà Hồ Nam, rau Shouguang, tôm hùm Xuyi, hoa nhài Hengxian, trà Menghai Pu'er, bưởi Rongxian Shatian, gạo Xing'an League, kê Yichuan, khoai tây Ulanchabu, cừu Yanchitan, táo Luochuan, v.v. tất cả đã mọc lên trong những năm gần đây.

Vào năm 2020, Big Climate cũng đã tận dụng lợi thế dữ liệu lớn về "nguồn gốc xuất xứ, khả năng truy xuất và truy cập trực quan" để ra trái kiwi thương hiệu của riêng mình. Doanh số bán hàng trung bình mỗi ngày đạt 8000 đơn; tỷ lệ mua cao hơn 30%. Do đó thu nhập của nông dân tăng gấp đôi so với những năm trước.

Nông nghiệp hiện đại không chỉ là trồng trọt và chăn nuôi (sơ cấp); quá trình chế biến nguyên liệu thực phẩm (thứ cấp); hàng tiêu dùng nhanh từ đồng ruộng đến bàn bếp. Mà còn là sự nhàn rỗi, tham quan, và các hoạt động của phụ huynh, con cái (công nghiệp thứ ba); cũng như lương hưu lành mạnh, văn hóa sáng tạo, v.v.

Sự tích hợp của các ngành công nghiệp sơ cấp, thứ cấp và công nghiệp thứ ba có nhiều điểm giá trị gia tăng trong toàn bộ chuỗi công nghiệp.

Một số tham gia vào trồng trọt và chăn nuôi. Một số tham gia vào chế biến và một số tham gia vào các dịch vụ bán hàng và ngành công nghiệp thứ ba để tham quan, giải trí, chăm sóc người cao tuổi, hái lượm, nuôi dạy con cái.

Hơn thế nữa, các dịch vụ du lịch văn hóa, biến nông nghiệp vốn là một ngành cơ bản, thành một ngành công nghiệp toàn diện. Điều này sẽ làm tăng giá trị của các sản phẩm nông nghiệp; cho phép nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp có thể tăng thu nhập.

Có rất nhiều ví dụ về trang trại như vậy. Ví dụ, trang trại Shanjiaole Quảng Đông không chỉ sản xuất, bán quả kiwi đỏ và chanh dây; Mà còn tiến hành các hoạt động trang trại quanh năm để tạo thu nhập.

Trà trắng Anji Songming sử dụng lợi thế thương hiệu của mình để phát triển sự tích hợp của du lịch chè.

Trong số hàng trăm trang trại ở Giang Tây, hầu hết trong số họ đang xây dựng thương hiệu với khả năng truy xuất nguồn gốc trực quan bằng mắt thường và đồng thời phát triển nông nghiệp giải trí.

Nông dân đều đang nỗ lực hướng tới việc tích hợp các nguồn lực. Nhưng một số người vẫn đang củng cố giai đoạn đầu. Một số người đã thực hiện bước đầu tiên. Đó là hội nhập ngành công nghiệp thứ ba. Làm thế nào để thực hiện tốt điều đó lại là một việc khác.

Xu hướng phát triển nông nghiệp theo yêu cầu

"Nông nghiệp theo yêu cầu" lấy sản phẩm nông nghiệp xanh và hữu cơ làm chủ thể; lấy hội viên để mở rộng hệ thống khách hàng. Đây là mô hình nông nghiệp đáp ứng nhu cầu mới. Điểm mấu chốt của nó không chỉ là bán nông sản, mà còn thu hút người dân thành phố đến trải nghiệm, tham quan, tiêu dùng và kết hợp sâu rộng với du lịch, dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, văn hóa và các ngành khác, thúc đẩy sự hồi sinh của nông thôn.

1. Người tiêu dùng thành thị sẽ trở thành thành viên của các doanh nghiệp nông nghiệp có thể cung cấp các thương hiệu nông sản chất lượng cao.

2. Doanh nghiệp nông nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, phân phối các sản phẩm nông nghiệp và phụ trợ theo thỏa thuận.

3. Sự kết hợp giữa nông nghiệp và du lịch, nơi các thành viên có thể thường xuyên đến trang trại để trải nghiệm cuộc sống nông dân, với tư cách là người tiêu dùng và người sản xuất.

Nói một cách đơn giản, đó là phá vỡ mô hình tiêu dùng truyền thống trước đây. Thời đại "tôi có gì thì bán; bán gì thì tiêu cái đó" đã qua. Và một chuỗi cung ứng kiểu theo định hướng của thị trường và nhu cầu của người tiêu dùng đã xuất hiện. "Người tiêu dùng và thị trường cần những gì họ bán; những gì bạn bán, bạn trồng, nuôi và chế biến."

Mô hình “xác định sản xuất theo doanh số” sẽ thúc đẩy chuyển đổi, nâng cấp nền nông nghiệp truyền thống sang nền nông nghiệp hiện đại, đáng để mỗi nông dân suy nghĩ và thực hành.

Được biết đến là một trong số những đơn vị tiên phong trong ứng dụng công nghệ thông minh vào sản xuất nông nghiệp, với những sản phẩm công nghệ cao và ưu việt như Máy bay nông nghiệp không người lái; Hệ thống giám sát nông nghiệp thông minh; Phân bón hữu cơ sinh học Rural Boss DTOGNFit; Thuốc trừ cỏ hữu cơ DTOGNHBC; Phần mềm truy xuất nguồn gốc Agricheck… Đại Thành đã chuyển giao công nghệ ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp cho hàng nhiều tổ chức; cá nhân uy tín tại Việt Nam và các nước trong khu vực.

Website: https://daithanhtech.com/ hoặc http://globalcheck.com.vn

Kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh trong nông nghiệp

Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhiều doanh nghiệp gỗ đã lâm vào tình trạng giảm doanh thu, phải tạm dừng hoạt động… do đơn hàng giảm, điều này làm cho nhiều doanh nghiệp đang phải cơ cấu lại mặt hàng để đẩy mạnh việc tiêu thụ tại thị trường nội địa, kết hợp với các hình thức kinh doanh đa dạng hơn.

Tính từ đầu năm đến ngày 09/5/2020, xuất khẩu sản phẩm gỗ đã giảm 33,35% so với cùng kỳ năm 2019. Đây là những con số bước đầu phản ánh tác động của dịch Covid-19 tới ngành gỗ và dự kiến trong 2 tháng tiếp theo giá trị xuất khẩu sẽ giảm trên 50% so với cùng kỳ của năm 2019. Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Viforest) cho rằng, tăng trưởng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ trong quý I/2020 so với cùng kỳ năm 2019 là do doanh nghiệp xuất khẩu theo các đơn hàng của năm 2019. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, do đó đến tháng 4/2020, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ chỉ còn khoảng 50%, đến tháng 5 còn 30% và dự báo đến tháng 6, tháng 7/2020 sẽ còn giảm sâu hơn nữa do không có đơn hàng. Điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp hiện đã đóng cửa vì không có đơn hàng (như Công ty Govina…), thậm chí một số công ty đã thông báo bán nhà máy như Công ty Kim Sen, Công ty BHL Tân Sơn…

Theo các chuyên gia, trong bối cảnh phải áp dụng lệnh cách ly cũng như việc thu hẹp các nguồn tín dụng cho vay doanh nghiệp xuất khẩu tại nhiều quốc gia vốn là nhà đầu tư lớn của Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản, châu Âu, các doanh nghiệp gỗ Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến việc thực hiện hợp đồng như: (i) Hàng đã xuất mà vẫn không nhận được tiền thanh toán; (ii) Chậm thanh toán đi liền với việc không có khả năng thanh toán hợp đồng; (iii) Khả năng thực thi của các hợp đồng hiện tại thấp, do bị hoãn, thay đổi hoặc hủy hợp đồng.

Bên cạnh đó, ông Lê Thành Kính - Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam nhận định, ngành chế biến xuất khẩu gỗ mang tính thời vụ, theo đó các doanh nghiệp xuất khẩu thường nhận đơn hàng vào cuối năm. Sáu tháng tiếp theo là quá trình chuẩn bị nguyên liệu, tổ chức sản xuất. Hàng sẽ bắt đầu được giao vào nửa cuối của năm sau. Từ thời điểm bắt đầu giao hàng đến thời điểm nhận đơn hàng mới cho năm sau là giai đoạn các doanh nghiệp chế biến cần sử dụng nhiều lao động nhất. Tuy nhiên, hiện nay nhân lực trong ngành chế biến gỗ chiếm khoảng 300 nghìn người, chủ yếu là lao động hợp đồng có thời hạn, thậm chí lao động không có hợp đồng

Hướng đi mới để khai thác thị trường

Nhóm nghiên cứu của Viforest và các hiệp hội gỗ thành viên cho rằng, để giảm thiểu các động của dịch Covid-19 tới hoạt động của doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp đang hết sức nỗ lực, cố gắng duy trì phần nào hoạt động sản xuất - kinh doanh. Hiện các doanh nghiệp bắt đầu thực hiện các sáng kiến để tồn tại và chuẩn bị quay trở lại sau dịch.

Để đẩy mạnh việc khai thác nhu cầu thị trường, một số cơ sở kinh doanh hộ gia đình tại các làng nghề đã chuyển hướng với sản phẩm phục vụ thị trường nội địa, kết hợp với hình thức bán hàng online, như Hiệp hội gỗ Đồng Kỵ (Bắc Ninh) hiện nay đã thành lập nhóm trên zalo, viber và facebook gồm các hộ gia đình sản xuất, hộ chuyên làm thương mại và hộ cung cấp nguyên liệu đầu vào, với ít nhất 179 thành viên đang tham gia vào các nhóm bán hàng này. Các thành viên trong nhóm thường xuyên chia sẻ các mặt hàng mà hộ mình làm ra, chào giá bán trên nhóm và nhờ các thành viên trong nhóm kết nối với người mua có nhu cầu…

Các chuyên gia cho rằng, việc chuyển đổi phương thức bán hàng từ hình thức bán hàng truyền thống sang hình thức bán hàng online là phù hợp với hiện nay nhưng để chuyển đổi phương thức bán hàng này đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có những thay đổi căn bản về trình độ quản trị doanh nghiệp và tay nghề của người lao động, phát triển cơ sở hạ tầng tốt và khâu truyền thông cần được đẩy mạnh.

Do việc đứt gãy các chuỗi cung, bao gồm cả các chuỗi cung nhập khẩu các mặt hàng gỗ từ nước ngoài, đặc biệt là từ Trung Quốc vào Việt Nam phục vụ tiêu dùng nội địa, đã tạo ra khoảng trống về các mặt hàng này trên thị trường nội địa. Do đó, một số cơ sở sản xuất cũng thực hiện chuyển đổi cơ cấu dòng sản phẩm của mình để thay thế hàng nhập khẩu tại thị trường nội địa nhằm cung ứng cho thị trường nội địa, đồng thời tạo công việc cho người lao động trong bối cảnh hậu dịch Covid-19.

Theo Nhóm nghiên cứu của Viforest, phát triển thị trường nội địa có độ ổn định và đặc biệt có “sức chống chịu” đối với đại dịch tốt hơn nhiều so với thị trường xuất khẩu. Để phát triển thị trường nội địa đòi hỏi xác định chính xác về thực trạng và vai trò của thị trường nội địa, xu hướng cung - cầu tại thị trường này, mối tương quan giữa thị trường này và thị trường xuất khẩu, từ đó hình thành các cơ chế chính sách phù hợp.

Cùng với việc thay đổi phương thức bán hàng, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng, một số doanh nghiệp gỗ đã tổ chức lại quy mô và năng lực sản xuất. Theo ông Điền Quang Hiệp - Chủ tịch Hiệp hội chế biến gỗ Bình Dương, hoạt động sản xuất - kinh doanh giảm trong giai đoạn này đã tác động tiêu cực đến doanh nghiệp, nhưng cũng tạo tạo ra khoảng thời gian cho doanh nghiệp nhìn nhận lại hoạt động sản xuất - kinh doanh, tìm ra các khía cạnh, các khâu chưa hiệu quả, từ đó đưa ra phương án cải thiện để nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao năng suất lao động.

Đồng quan điểm, ông Đỗ Xuân Lập - Chủ tịch Viforest cho rằng, dịch Covid-19 sẽ qua nhưng chắc chắn sự vận hành của ngành gỗ không thể duy trì như trước khi dịch xảy ra. Vì vậy, ngành gỗ cần có những hướng đi mới, với các thay đổi căn bản liên quan tới việc xác định các dòng sản phẩm và thị trường chiến lược, hình thành và phát triển các liên kết giữa các doanh nghiệp trong ngành và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, chuyển đổi dần từ phương thức bán hàng truyền thống sang hình thức bán hàng online và phát triển thị trường nội địa.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp gỗ cũng phải xác định được chiến lược phát triển bền vững, theo đó chiến lược này cần bao hàm thông tin về xu hướng thay đổi cung - cầu về đồ gỗ, bởi cung - cầu thị trường luôn có biến động, không chỉ bởi các cơ chế chính sách của Nhà nước mà còn do thay đổi thị hiếu và nhận thức của người tiêu dùng toàn cầu. Xác định một chiến lược cho ngành gỗ với các hợp phần này sẽ giúp cho ngành gỗ giảm được các rủi ro do thị trường và bệnh dịch và đi theo hướng bền vững trong tương lai.

Các kết nối giữa các doanh nghiệp trong ngành và các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) cần được hình thành để giúp các doanh nghiệp nội địa hiểu rõ hơn về những dòng sản phẩm và thị trường xuất khẩu ở quy mô toàn cầu, cũng như xu hướng thay đổi các sản phẩm và thị trường này trong tương lai. Kết nối với các doanh nghiệp FDI cũng sẽ tạo cơ hội trong việc trao đổi thông tin về quản trị doanh nghiệp, công nghệ và thị trường, tạo ra các kiến nghị về chính sách sát thực tế hơn.

Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN về miễn, giảm lãi suất nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, tuy nhiên nhiều doanh nghiệp ngành gỗ vẫn đang trong tình trạng đợi ngân hàng xem xét hồ sơ để giảm lãi suất, cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với các khoản vay. Do đó, Nhà nước cần sớm có biện pháp tháo gỡ vướng mắc về thủ tục (tài liệu chứng minh thiệt hại, giảm thu nhập…) của các doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực của dịch để doanh nghiệp sớm nhận được các khoản vay hỗ trợ phục hồi sản xuất - kinh doanh.

Về hỗ trợ người lao động, Viforest cho rằng, các đơn vị có thẩm quyền cần nhanh chóng thực hiện gói hỗ trợ 50% lương tối thiểu cho những người lao động tạm mất việc làm do dịch bệnh và cho vay không lãi để doanh nghiệp chi trả 50% còn lại nhằm bảo tồn lực lượng sản xuất của ngành công nghiệp chế biến gỗ.